Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

Chữa trĩ theo dân gian


Tôi 78 tuổi, bị trĩ 20 năm, đã tiêm huyết thanh nóng 2 búi, kết quả tốt. Năm ngoái bệnh tái phát, búi trĩ viêm to, dịch bẩn rỉ ra thường xuyên gây đau rát. Tôi đã thử dùng một bài thuốc dân gian gồm trầu không, bồ kết, hạt gấc... . Tôi dùng 7 lá trầu không, 7 quả bồ kết, 7 hạt gấc giã nhỏ, trộn ít muối và một quả cau bổ thành 7 miếng, đun lên xông và ngâm, ngày 2 lần. Sau 3 ngày, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Tôi bôi thêm kem nghệ Nacaren, búi trĩ co lên hết, hậu môn trở lại bình thường. Tại sao lại như vậy?.
Trả lời:
Trĩ là một trong những căn bệnh rất phổ biến ở nước ta đúng như cổ nhân đã nói: “thập nhân cửu trĩ”. Bởi vậy, các bài thuốc kinh nghiệm dân gian có công dụng phòng chống bệnh lý này là hết sức phong phú. Khởi đầu, bác bị trĩ nội, sau đó bệnh tái phát và có biến chứng viêm tắc tĩnh mạch trĩ khiến cho hậu môn sưng đau và xuất tiết dịch bẩn. Trong trường hợp này, mọi biện pháp trị liệu phải đạt được các mục đích: kháng khuẩn, chống viêm, giảm phù nề, giảm đau và làm cho búi trĩ co lên.
Trong bài thuốc mà bác đã dùng, trầu không là một vị thuốc cay nóng, tính ấm, có công dụng trừ phong thấp, chống lạnh, hạ khí, tiêu đờm, tiêu viêm và sát trùng, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như cảm mạo, mụn nhọt, vết thương phần mềm, bỏng, viêm chân răng, sai khớp, bong gân... Nghiên cứu hiện đại cho thấy, trầu không có tác dụng ức chế nhiều chủng vi khuẩn như tụ cầu vàng, phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn tan máu, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lỵ và thương hàn, trực khuẩn coli... và còn có tác dụng làm lành nhanh vết thương nhờ khả năng thúc đẩy sự biểu mô hóa.
Quả bồ kết vị cay mặn, tính ấm, có công dụng thông khiếu, trừ đàm, tiêu thũng, sát trùng, tiêu độc, thường được dùng để chữa trúng phong, hen suyễn, sâu răng, kiết lỵ, mụn nhọt, áp xe vú... Quả bồ kết cũng có tác dụng kháng khuẩn, tiêu viêm.
Hạt gấc vị đắng hơi ngọt, tính ấm, có công dụng tiêu tích, lợi trường, tiêu thũng, tiêu viêm và sinh cơ, thường được dùng để chữa mụn nhọt, ghẻ lở, trĩ, lòi dom, sưng vú, tắc tia sữa, sốt rét có báng..., chủ yếu dùng ngoài vì có độc. Quả cau vị đắng chát, tính ấm, có công dụng sát trùng, tiêu thũng, tiêu tích, hành khí, lợi thủy. Muối ăn, còn gọi là diêm tiêu, vị mặn, tính lạnh, cũng có công dụng tả hỏa, lương huyết, tiêu viêm, nhuận táo.
Như vậy, tất cả 5 vị thuốc trong bài phối hợp với nhau tạo nên công năng kháng khuẩn, tiêu viêm, tiêu thũng (giảm sưng nề) và kích thích quá trình biểu mô hóa, làm lành nhanh vết thương. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc trị liệu bệnh trĩ có biến chứng viêm tắc gây sưng nề, viêm nhiễm. Bởi vậy, bài thuốc mà bác dùng là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, rất tiếc cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào khảo sát cụ thể về tác dụng trị liệu của phương thuốc dân gian này đối với bệnh trĩ có biến chứng. Đây là một gợi ý rất đáng chú tâm cho các nhà y học nói chung và các chuyên gia về bệnh trĩ nói riêng.
ThS Hoàng Khánh ToànSức Khỏe & Đời Số

Bài thuốc nam giản dị bóp nát những viên sỏi thận


Gặp ông lão Nguyễn Sinh Châu (60 tuổi, dân tộc Mường, ngụ xóm Yên Thành, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình) đang phơi nắng đống thân cây xắt nhỏ trên sân nhà, không ai nghĩ ông là một thầy thuốc có tiếng, thậm chí còn là Phó Chủ tịch Hội đông y huyện. Lý do nhầm tưởng cũng giản dị như những vị thuốc ông đang phơi “tầm thường” giống… đồ bỏ đi. Vậy mà thực chất đó lại là những vị thuốc có thể bóp nát những viên sỏi thận gây đau đớn trong cơ thể người bệnh.
Lương y Nguyễn Sinh Châu
Lương y Nguyễn Sinh Châu
Bắt bệnh sỏi thận       
Sinh ra và lớn lên ở trong một gia đình có truyền thống về thuốc nam, từ nhỏ ông đã được gia đình truyền lại bài thuốc chữa sỏi thận. Tham gia Hội đông y xã, kinh nghiệm hành nghề hàng chục năm cộng với những lần được cử đi tập huấn các khóa huấn luyện về y học cổ truyền, ông Châu đã thành một “lão làng” trong nghề. Bài thuốc chữa sỏi thận của ông đã được Hội đông y huyện kiểm nghiệm, công nhận là bài thuốc gia truyền.
Lương y này cho rằng có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến sỏi thận, chủ  yếu là các dạng sau: Có thể là do uống nước không đủ, một số người lao động nặng nhọc, lúc nghỉ ngơi thì uống rất nhiều nước nhưng lượng nước uống vào không đồng đều. Nhiều lần như vậy sẽ tạo thành thói quen, do tác động của việc đi tiểu không điều độ có thể làm ảnh hưởng đến ống thoát nước tiểu, nước tiểu sẽ bị ứ đọng do không được thoát hết ra ngoài, lâu ngày tạo thành sỏi.
Lý do nữa là ăn uống không hợp lý, ăn quá nhiều thịt hoặc quá nhiều rau. Lại có những trường hợp bị chấn thương nặng, phải nằm một chỗ, nhất là vết thương ở đùi, khi người bệnh uống nhiều sữa, ít nước sẽ dễ ảnh hưởng đến nước tiểu và ảnh hưởng đến ống thoát nước tiểu.

Loài cây lá dài khắc chế bệnh cao huyết áp?


Cây có những chiếc lá dài đến gần 1m chỉ mọc ở một số nơi vùng cao, lạnh ở tỉnh Lạng Sơn, co tên là đại mạch, có thể làm thuốc chữa bệnh cao huyết áp. Sở hữu “bí mật” này, Hội trưởng Hội đông y xã Khuất Xá, ông Vi Văn Kiến (62 tuổi, ngụ thôn Bản Chu, xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) được người địa phương gọi tên vui là “ông lang thuốc mát”.
Ông Kiến bên loài lá cây đại mạch
Ông Kiến bên cây đại mạch
Bắt bệnh cao huyết áp
Cậu bé Kiến sinh ra và lớn lên ở “vựa thuốc nam” vùng Đông Bắc. Địa hình đồi núi cao, khí hậu mát lạnh, cộng thêm hướng gió thổi từ vùng biển vào đã là vùng đất sản sinh ra những cây thuốc quý hiếm chỉ có Lạng Sơn. Ngày xưa chưa có trạm y tế, người dân chỉ lấy những cây thuốc nam để tự chữa bệnh. Sống trong môi trường đó nên ông đã đam mê những cây thuốc nam từ nhỏ. Ước mơ trở thành một người thầy thuốc chữa bệnh đã nhen nhóm trong lòng ông lúc nào không hay.
 
Hồi nhỏ Kiến thường đi theo bà hái thuốc. Bà nội Kiến là một vị lang y nổi tiếng về các loại thuốc mát ở đất Lộc Bình, nổi tiếng với các loại thuốc giảm nhiệt, thuốc mát, thanh nhiệt cơ thể, bổ máu... Cậu bé ham học hỏi, hầu hết tất cả những cây cỏ xung quanh ông cũng hỏi bà xem chúng có vị thuốc hay không. Trước khi mất, bà nội đã truyền lại cho Kiến biết bài thuốc bí truyền chữa bệnh cao huyết áp. 
 

Dứt cơn đau bao tử với cây thuốc lạ

Ngày ngày ông lặn lội bỏ công sưu tầm những cây thuốc nam với ý nguyện giúp người nghèo không có điều kiện đến bệnh viện chữa trị. Hễ đi đâu, nghe ai giới thiệu cây thuốc nào ông lại mày mò xin về nhân giống bằng được. Đặc biệt trong vườn thuốc “bé cỏn con” của ông cán bộ về hưu này có cây thuốc chữa trị bệnh đau dạ dày (đau bao tử) rất hiệu quả mà chủ nhân chưa hề biết tên. Đó là ông Huỳnh Sáu (63 tuổi), ngụ phố Hàn Mặc Tử, phường Vĩ Dạ, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Những cọng lá đẩy lùi cơn đau bao tử
Dù là dân “tay ngang” nhưng với kinh nghiệm gần 20 năm tìm tòi, sưu tầm cây thuốc nam của mình, ông Huỳnh Sáu biết nhiều về tác dụng của cây thuốc nam. Giới thiệu với khách, ông Sáu tự hào “khoe” rằng vừa sưu tầm được giống cây thuốc có tác dụng chữa bệnh đau dạ dày rất hiệu quả.
Trớ trêu rằng ngay bản thân ông cũng không thể hay biết về tên gọi của giống cây này dù đã tìm hiểu bấy lâu nay. Bí quá ông đặt luôn cho cây lạ cái tên “rất kêu” để dễ nhớ : Cây bao tử. “Tên gọi không quan trọng bằng tác dụng của cây thuốc. Cây tên gì cũng được, miễn sao hiểu rõ công dụng của cây mà ứng dụng vào thực tế mới là điều thực sự cần thiết”, ông Sáu phân bua.
Cây thuốc nam mà ông Sáu khẳng định có tác dụng chữa bệnh đau dạ dày
Cây thuốc nam mà ông Sáu khẳng định có tác dụng chữa bệnh đau dạ dày
Theo quan sát bên ngoài, “cây bao tử” của ông Sáu tương tự giống lan Boóc- đô nhưng lá có màu xanh nhạt hơn. Loại cây này mọc thành khóm, có hoa nhưng chỉ một nụ duy nhất. Đặc điểm “lạ mắt” nhất của giống cây này là trên hoa và lá cây có rất nhiều chất nhờn tiết ra. Theo ông Sáu, tác dụng chữa bệnh của cây nằm ở đặc tính này: “Người bị đau dạ dày thường do thiếu chất nhờn có tác dụng bôi trơn, tiêu hoá thức ăn. Theo tôi chính lượng chất nhờn dồi dào này nên cây có tác dụng chữa bệnh”.
Về cách thức sử dụng, ông Huỳnh Sáu hướng dẫn: Chỉ cần ngắt lá “cây bao tử” rửa sạch rồi nhai sống vào mỗi buổi sáng. Đối với người bệnh là nam giới, mỗi lần cần nhai đủ 7 lá, nữ giới mỗi lần nhai 9 lá. Không thể giải thích rõ tại sao lại nhai 7 lá hay 9 lá nhưng ông Sáu bật mí đó là “bí kíp” trong dân gian.
Một điều kiện mang tính kì bí là khi sử dụng “cây bao tử” để chữa bệnh tuyệt đối không được giải thích câu nào. Ông Sáu bảo rằng đây là “vị thuốc dấu” (giống như cách chữa “mẹo” trong dân gian) nên khi sử dụng cũng cần “im lặng”, nếu không sẽ làm mất công hiệu của thuốc. “Chỉ cần đưa lá cây bao tử rồi bảo người bệnh nhai sống là được. Dù người bệnh thắc mắc điều gì đều không được giải thích vào lúc đó. Kiên trì nhai lá cây thường xuyên khoảng 1 - 2 tuần sẽ khỏi bệnh”, ông Sáu nói.

Cây huyết dụ chữa trĩ và rong kinh


Nếu bị chảy máu do bệnh trĩ, bệnh lỵ, hay rong kinh, băng huyết, cây huyết dụ có thể giúp cầm máu và cải thiện bệnh.
Cây huyết dụ thường được trồng làm cảnh. Có hai loại cây huyết dụ. Một loại lá đỏ cả hai mặt và một loại lá đỏ một mặt, còn mặt kia lá có màu xanh. Cả hai loại đều được Đông y dùng làm thuốc. Theo Đông y, huyết dụ có vị nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, tiêu ứ, cầm máu dùng chữa chứng kiết lỵ, rong kinh, phong thấp nhức xương, xích bạch đới…
Phụ nữ trước khi sinh con và sau khi sinh mà bị sót nhau thì không được dùng thuốc có vị huyết dụ.
Rong kinh: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 10 gr rễ cỏ tranh, 10 gr đài tồn tại trên quả mướp, 10 gr rễ gừng. Tất cả mang thái nhỏ sắc với 400 ml nước còn 100 ml. Chia uống làm hai lần trong ngày.
Trĩ ra máu, đái ra máu, băng huyết: Lấy 20 gr lá huyết dụ tươi rửa sạch. Đổ 200 ml nước vào sắc còn 100 ml, chia uống trong ngày.
Chảy máu cam, cháy máu dưới da: Lấy 30 gr lá huyết dụ tươi, 20 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr lá trắc bá (sao cháy) sắc kỹ uống đều đến lúc khỏi.
Kiết lỵ ra máu: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 12 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr rau má. Rửa sạch, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, gạn lấy nước thuốc uống. Dùng 2 – 3 ngày, nếu không giảm thì đến khám bệnh để được điều trị dứt điểm.
Phong thấp đau nhức, bị thương ứ máu: Lấy 30 gr hoa, lá, rễ cây huyết dụ, 15 gr huyết giác. Sắc uống đến lúc có kết quả.
Ho ra máu: Lấy 16 gr lá huyết dụ, 16 gr lá trắc bá sao đen. Đổ 400 ml nước sắc còn 200 ml chia uống làm 2 – 3 lần trong ngày.
(Theo datviet)

Quả sung chữa bệnh trĩ


Trong dân gian lưu truyền kinh nghiệm dùng trái sung để chữa trị bệnh trĩ – cả trĩ nội và trĩ ngoại
Tôi bị bệnh trĩ đã nhiều năm; chữa nhiều nơi, dùng nhiều thuốc, tốn nhiều tiền mà chưa khỏi. Gần đây, có người mách môn thuốc rẻ tiền, nói là rất hay: Chỉ cần dùng trái sung nấu canh ăn, có thể khỏi bệnh. Xin cho biết, có thể dùng trái sung chữa trị được không? Cách dùng cụ thể? (Lê Văn Bình, Đầm Hà, Quảng Ninh)
Trả lời:
Trái sung các cụ thời xưa gọi là “vô hoa quả” (quả không hoa), vì cây không thấy ra hoa mà đã có ngay quả. Nay ta biết, quả sung thực ra là một quả giả, do đế hoa tự tạo thành. Cây sung rất sai quả, quả từ gốc đến ngọn, chi chít trên cành, thành từng chùm trên thân cây và những cành to không mang lá, khi chín màu đỏ nâu.
Quả sung không những có thể dùng để ăn, mà còn có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y, quả sung có vị ngọt, tính bình, vào 2 kinh Túc thái âm tỳ và Túc dương minh đại tràng. Có tác dụng kiện tỳ thanh tràng (tăng cường tiêu hóa và làm sạch ruột), tiêu thũng, giải độc. Dùng chữa tiêu hóa bất lương (tiêu hóa kém), viêm ruột, kiết lỵ, đại tiện bí kết, trĩ sang (trĩ lở loét), thoái giang (lòi rom, sa trực tràng)…
Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong quả sung có nhiều chất dinh dưỡng quý, nhiều loại đường và nhiều acid hữu cơ. Đặc biệt là, trong quả sung còn xanh còn chiết xuất được những thành phần có tác dụng chống ung thư.
Bài liên quan:
Đúng là, từ xưa trong dân gian có lưu truyền kinh nghiệm dùng trái sung để chữa trị bệnh trĩ – cả trĩ nội và trĩ ngoại. Kinh nghiệm dùng trái sung, vỏ cây và lá sung để chữa trĩ, cũng thấy được đề cập trong một số sách thuốc Đông y. Cụ thể, bạn có thể sử dụng như sau:
- Dùng trái sung xanh (quả chưa chín đỏ). Trái tươi hay hái khô đều được, nhưng đến mùa quả, nên hái lấy vài cân, đem phơi khô, cất đi dùng dần. Hàng ngày dùng 15 – 20 quả, lòng lợn 1 đoạn, nấu canh ăn. Món canh này có tác dụng dự phòng và điều trị khá tốt trĩ nội và trĩ ngoại. Có thể ăn liên tục đến khi khỏi bệnh. Đối với trường hợp sa trực tràng do táo bón, hàng ngày có thể dùng 5 – 10 quả, sắc lấy nước uống.
- Dùng 10 quả sung; nếu không có quả có thể dùng 1 miếng vỏ cây (cỡ 2 bàn tay, đẽo bỏ vỏ ngoài) hoặc một nắm to lá sung, nấu với 1,5 – 2 lít nước. Tối trước khi đi ngủ khoảng 30 phút nấu nước xông giang môn, khi nước đỡ nóng (nhiệt độ còn 370C – 380C) thì lấy nước rửa. Mỗi ngày rửa một lần, liên tục 8 – 10 ngày (1 liệu trình), cũng có tác dụng trị liệu tốt. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, một số trường hợp chỉ xông – rửa như vậy mà bệnh cũng khỏi.
(Theo Tri thức trẻ)

Chữa trĩ bằng các bài thuốc đơn giản



rau diếp cá chữa bệnh trĩ
rau diếp cá chữa bệnh trĩ
Theo kinh nghiệm dân gian, có thể cải thiện bệnh trĩ bằng cách lấy lá diếp cá 50 g sắc đặc uống ngày 2 lần, bã dùng đắp vào búi trĩ.
Một số phương pháp khác:
- Nhân hạt gấc 40 g giã nát, trộn với một ít dấm thanh rồi bọc vào vải, đắp búi trĩ.
- Lá thiên lý non hoặc vừa 100 g rửa sạch, giã nhỏ, trộn với 10 g muối, cho vò 300 ml nước cất, lọc qua vải gạc rồi tẩm bông băng vào vết trĩ đã được rửa sạch bằng thuốc tím. Ngày làm 1-2 lần, trong vài ba ngày.
- Xà sàng tử 40 g, cam thảo 40 g, tán thành bột, trộn đều, ngày uống 9 g, chia làm 3 lần. Đồng thời nấu nước xà sàng tử xông và rửa.
- Hòe hoa 20 g, kinh giới 40 g, chỉ xác 20 g, ngải cứu 40 g, phèn chua 12 g. Cho vào nồi, dùng lá chuối bọc kín, đem đun sôi độ 10 phút, chọc một lỗ thủng xông trực tiếp vào chỗ trĩ. Khi nguội, dùng nước đó ngâm rửa, ngày hai lần.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống

Phòng chữa trĩ bằng bài thuốc từ thiên nhiên

Bệnh trĩ có thể gây nhiều biến chứng như nhiễm trùng trĩ, nghẽn mạch, sa và nghẽn các búi trĩ, dò hậu môn. Tuy nhiên bạn có thể tự phòng chữa bệnh bằng những bài thuốc đơn giản.

Thuốc từ thiên nhiên

Khi bị bệnh trĩ đau nhức, có thể dùng lá diếp cá nấu nước xông, ngâm rửa lúc còn nóng, còn bã dùng đắp vào chỗ đau. Đồng thời dùng diếp cá uống tươi hoặc sắc uống liên tục trong ba tháng.

Bạn cũng có thể dùng vỏ củ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán bột, trộn đều với dầu vừng, bôi hoặc đắp.



Rau diếp cá tốt cho người bệnh trĩ


Khi bị trĩ ra máu, có thể dùng một trong những bài thuốc nam sau đây để cầm:

Lá huyết dụ tươi (40 g), lá cây sống đời tươi (20 g), lá cây cỏ mực tươi. Ba loại rửa sạch, sắc uống 2 lần trong ngày, trước bữa ăn.

Hay dùng ấu củ, sen khô, cỏ mực, mỗi loại 20 g cùng 16 g lá trắc bá. Tất cả sao đen, sắc uống 2 lần trong ngày, trước bữa ăn hoặc lúc bị chảy máu.

Hoặc lá sen tươi, lá ngải cứu tươi, lá trắc bá tươi, lá cây cỏ mực tươi, mỗi loại 30-40 g. Tất cả rửa thật sạch, giã nát, vắt lấy nước uống (hoặc làm thang sắc uống), trước bữa ăn 30 phút đến 1 giờ.

Ngoài ra bạn có thể dùng cá quả để chữa bệnh: Cá quả 1 con, tỏi, bạch cập; cá làm sạch cho vào nồi nấu canh với tỏi và bạch cập để ăn.

Chữa trĩ bằng hoa

Các loài hoa cũng có tác dụng chữa bệnh trĩ.

Trong trường hợp bị trĩ xuất huyết: dùng hoa mướp 20g, hoa hoè 10, hai thứ đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày, mỗi ngày dùng 1 thang, hãm uống vài ba lần.

Khi bị trĩ sa, bạn có thể lấy hoa mướp với lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát rồi đắp vào hậu môn. Bài thuốc này còn có tác dụng thanh nhiệt giải độc.

Trong trường hợp bị sưng nề có thể dùng hoa mào gà 10g, phượng nhãn thảo 10g. Hai thứ đem sắc lấy nước ngâm rửa hậu môn, mỗi ngày 2 lần.

Khi bị nứt kẽ hậu môn, lấy hoa lăng tiêu 100g sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g với nước cháo gạo nếp.

Minh Minh (tổng hợp)

Tự chữa trĩ bằng bấm huyệt và thuốc Nam


Cổ nhân có câu: "Thập nhân cửu trĩ", nghĩa là 10 người thì 9 người mắc trĩ. Theo Đông y, bệnh liên quan đến tình trạng khí trệ, huyết ứ ở ruột và dạ dày. Tây y cũng kết luận, tình trạng ứ máu trong hệ thống tĩnh mạch hậu môn đã gây ra trĩ.

Việc tác động vào một số huyệt vị như bách hội, túc tam lý, thừa sơn có thể giảm bệnh trĩ.
Thừa sơn là huyệt thuộc kinh túc thiếu dương bàng quang, nằm ở bắp chân, tại chỗ trũng của 2 bắp cơ sinh đôi, khi co bắp chân sẽ hiện rõ khe của cơ sinh đôi này.
Túc tam lý là huyệt thuộc kinh túc dương minh vị, nằm gần đầu gối, cách hõm ngoài đầu gối ngang một bàn tay (3 thốn).
Bách hội là huyệt thuộc đốc mạch, nằm ở chính giữa đỉnh đầu, là giao điểm của đường thẳng nối giữa đỉnh hai vành tai với đường chính trung.
Ngoài việc bấm huyệt, bệnh nhân nên kết hợp dùng thuốc. Có thể tham khảo các bài thuốc sau:
- Ổi vừa chín tới, gọt bỏ vỏ ăn ngày vài quả. Nếu như ăn ổi cả vỏ thì có thể gây táo bón, nhưng nếu gọt vỏ thì lại hóa ra như thuốc nhuận tràng.
- Rau sam tươi (hoặc lá thiên lý, lá thuốc bỏng) rửa sạch, giã nát, đắp vào hậu môn, nơi trĩ sưng lòi ra.
- Chua me đất, rau sam mỗi thứ một nắm, bồ kết 1 quả giã nhỏ, nấu nước ngâm rửa, ngày làm 1-2 lần.
- Mã tiền 3-5 hạt sống, cho dấm vào chậu sành, dùng mã tiền mài lấy nước bôi vào chỗ đau, ngày 1-3 lần. Khi mới bôi có cảm giác đau, nhưng sau sẽ mát và không đau nữa.
- Dùng hạt gấc mài với dấm, bôi vào trĩ (trĩ ngoại), ngày 3-5 lần.
- Một con ốc bươu lớn, rửa sạch, thả vào nước trong nuôi ít ngày, đợi khi ốc mở miệng, lấy 1 ít băng phiến cho vào miệng ốc, sau đó thả ốc vào chậu sạch, khi có nước dãi xanh chảy ra là được. Lấy bông thấm nước dãi ốc bôi vào trĩ, ngày 2-3 lần.
- Mật gấu (hoặc mật lợn) 1 g, pha trong 30 ml nước ấm cho đến khi mật tan, khuấy đều. Dùng tăm bông bôi mật vào trĩ, ngày 2-3 lần.
- Quả sung (hoặc quả vả tươi) 10 quả, sắc lấy nước rửa trĩ, ngày 2-3 lần.
BS Kim NgânSức Khỏe & Đời Sống

Một bài thuốc chữa khỏi bệnh trĩ

Một lần về thăm bố mẹ vợ ở Thanh Xuân Bắc, Hà Nội, tôi ngẫu nhiên gặp mấy ông bà quanh khu vực đến cảm ơn ông cụ vì đã mách cho bài thuốc chữa trĩ hiệu quả, có người bị bệnh nặng mấy chục năm mà dùng bài thuốc này cũng khỏi bệnh.  

Bố vợ tôi cho biết, bài thuốc này ông đọc trên báo Dân trí, thấy hay ông cắt lại rồi mách cho mọi người, trước hết ở dãy nhà C21 nơi ông bà ở. Mọi người dùng có hiệu quả, chuyền tay nhau, bài thuốc ngày càng được phổ biến rộng rãi.

Tôi tìm mãi mới thấy bản gốc, bài thuốc này đăng trên báo Dân trí số 03, trang 24 từ năm 1998 của tác giả Nguyễn Như An. Theo bài báo, ông An học được bài thuốc này từ những năm 1949 - 1950 khi là “Bộ đội Cụ Hồ” đóng quân ở vùng cao tỉnh Lao Cai, Thanh Hóa. Ông An đã mách bài thuốc này cho nhiều người và đều thu được kết quả cao, cả khi đóng quân ở nước bạn Lào và sau này làm chuyên gia giáo dục ở Angola.

Điều thú vị là bài thuốc này rất dễ tìm, dễ làm và chữa khỏi cả trĩ nội và trĩ ngoại. Tôi cũng đã giới thiệu bài thuốc này cho nhiều người, những ai tin tưởng và kiên trì đều khỏi bệnh. Bài thuốc này chỉ cần xông, không cần uống.

Các vị như sau: Lá sung, bỏ cọng, một nắm chặt trong tay. Lá ngải cứu, một nắm. Lá lốt, lá cúc tần, một nắm. Một củ nghệ, rửa sạch, tán nhỏ. Một chén con nước bồ kết đặc.

Cách làm:

Các thứ lá rửa sạch, thái nhỏ, cùng với củ nghệ đã tán nhỏ cho vào nồi, đổ 08 cốc nước, đun sôi thì cho chén nước bồ kết đặc vào, đậy vung kín, đun nhỏ lửa chừng 10 phút, sau đó đổ cả nước và bã vào bô rồi ngồi lên bô để xông cho hơi vào hậu môn từ 15 đến 20 phút.

Khi nước đã nguội bớt, sờ thấy còn nóng già đổ tất cả ra chậu, vun bã vào rồi ngồi đặt hậu môn lên khoảng 15 phút nữa. Sau đó dùng khăn mềm lau nhẹ cho khô rồi đi nằm nghỉ.

Lưu ý: Tuyệt đối không dùng bã thuốc chà sát hậu môn, tránh bị sứt sát có thể gây tổn thương và viêm nhiễm. Tuyệt đối kiêng không ăn thịt chó, uống rượu và hạn chế dùng đồ cay nóng.

Qua thực tế, người bệnh nhẹ chỉ cần xông một tuần, có người do bị bệnh hơn hai mươi năm nên đã bền bỉ xông đến hai chục ngày và đều khỏi bệnh, không tái phát.

TTXVITTROI (theo Trần Vân Hạc)